Tên di sản : Nhà thờ Họ Trương

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : 345/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nhà thờ họ Trương được xây dựng vào đầu thế kỷ XX. Nhà được xây dựng theo hướng Nam chếch Tây 30 độ trên khu đất rộng thoáng với tổng diện tích là 190,1m2. Hông nhà dựa ra đường làng phía Tây Nam có ngõ ra vào nhà.

Kiến trúc: Vốn trước đây là ngôi nhà gỗ 5 gian thông nhau, nhưng vào những năm 70 của thế kỷ XX, do hoàn cảnh, gia đình ông Trương Văn Thanh đã cải sửa nhà thờ bằng cách cắt đo hàng cột của vì 2 và vì 5, xây 2 bức tường ngăn thành 2 gian dĩ (gian buồng) để lấy nơi gia đình sinh hoạt, giữ lại 3 gian chính làm nơi thờ tự. Hiện nay, gia đình đã chuyển ở sang vị trí khác.

Ngôi nhà thờ gồm 5 gian được dựng trên mảnh đất bằng phẳng, không gian rộng thoáng đãng, đầu hồi là hai gian buồng trước đây gia đình dùng để ở nay đã dọn sạch. Hiện 3 gian giữa gia đình dùng để tiếp khách và thờ tự tổ tiên.

Cổng: gồm 2 trục cột vuông cao 3,1m, mỗi cạnh rộng 0,50m x 0,50m, mặt cột được ốp gạch màu sáng hồng, 2 trục cách nhau 1,8m được đóng mở bằng 3 cánh cửa hoa sắt cao 2,2m, cấu tạo theo lối 1 cánh đóng mở cố định, 2 cánh còn lại đóng nối với nhau bằng đôi bản lề gấp mở và được cố định 1 cánh vào thân trụ.

Sân: có kích thước chiều dài 13,5m, rộng 8,5m, được lát bằng gạch bát đỏ có kích thước mỗi cạnh là 25cm x 25cm suốt 5 gian.

Từ sân lên nền hiên nhà qua bậc rộng 1,43m, cao 0,19m, nền hiên được lát bằng gạch men xanh bằng phẳng suốt cả 3 gian hè.

Như vậy, các khối kiến trúc nằm trong diện tích hơn 190,1m2 gồm Nhà thờ chính, sân, cổng là một chỉnh thể kiến trúc thống nhất, không thể tách rời và có giá trị bổ sung cho nhau để có một không gian sống và thờ tự mang đặc điểm của truyền thống kiến trúc cổ Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Nhà thờ: Vào nửa cuối tháng 10 năm 2014, số hoành tải do thời gian đã lâu bị ải mục, gãy sập toàn bộ phần mái 2 gian giữa nhà thờ. Ông Trương Văn Thanh cùng dòng họ đã tổ chức tôn tạo lại phần mái, nâng cao phần tường thêm 0,50m và trát lại lớp áo bị bong tróc. Về cơ bản vẫn giữ nguyên kích thước cũ. Dù mới tôn tạo lại thì đây vẫn là ngôi nhà có một lối kiến trúc truyền thống, vừa bền vững thích ứng với điều kiện khí hậu của đồng bằng. Một bộ khung gỗ với 6 vì kèo để lộ ra phía trước một hàng hiên rộng, thông qua 3 chuồng cửa gỗ pano, mỗi chuồng có 2 cánh có kích thước chiều cao 2m, rộng 1,15m được đóng mở bởi một khung ngạch gỗ có chốt, 4 kẻ bẩy đỡ tàu mái trước tạo ra một không gian hiên rộng 1,45m, dài 7,5m. Kẻ bẩy ăn mộng vào đầu cột con tăng cường cho phần chắc chắn ở điểm nối giữa quá giang vào đầu cột con. Đầu kẻ “bẩy” được đỡ bằng cột hiên gạch xây tròn. Xà đai ở đầu cột con liên kết chặt chẽ 2 vì kèo của một gian, các điểm nối các cột con với nhau làm chức năng liên kết như các xà, hoàn chỉnh một bộ khung gỗ.

Nhà có 6 vì, mỗi vì cách nhau trung bình 2,25m, 2 vì cuối có 7 cột với tường bít đốc cách mép kèo khoảng gần 0,50m để tránh bị thẩm tường làm hỏng. Vì giữa trốn cột tạo ra được không gian rộng ở phía trong. Các vì ở đây kết cấu theo lối vì kèo suốt. Các câu đầu, con rường, bát đấu đều được chạm trổ cách điệu hình bông cúc, các con xà được kẻ chỉ. Toàn bộ kết cấu phần vì để chống đỡ phần mái, đảm bảo một sự liên kết vững chắc trước những cơn bão, lụt lội. Ngói âm dương trên mái vừa đè xuống sườn nhà cùng với hệ thống bờ bao với tường đốc nối với 2 bát đấu trên đỉnh nóc bằng một hệ thống bờ nóc vững chãi.

Nhà thờ các gian cách nhau có kích thước như sau:

Gian thứ nhất rộng: 2.90m.

Gian thứ hai rộng: 2,50m.

Gian thứ ba rộng: 2,50m.

Gian thứ tư rộng: 2,50m.

Gian thứ năm rộng: 2,90m.

Bốn cột hiên trước ở vì 2, vì 3, vì 4, vì 5 được lằm bằng gạch trát hồ ở ngoài, cấu tạo hình tròn có kích thước đường kính cột là 18cm, cao 2,25m; trong đó có 2 cột ở gian thứ hai và gian thứ 4 thì ½ thân cột trốn vào tường.

Ngôi nhà được sửa chữa phần mái, phần lớn hoành bằng luồng được thay bằng hoành gỗ vuông kích thước 10cm x 10cm. Số lượng hoành trên mái vẫn được chọn theo tập quán, xếp đặt theo thứ tự: Sinh, lão, bệnh, tử. Trong đó, thượng lương và hoành ở đầu tàu mái nhất thiết chiếm vị trí chữ “Sinh”. Trật tự này cũng chi phối số lượng rui đỡ ngói, đảm bảo cho các gian có số lượng “Không phạm tử”.

Cấu trúc mặt bằng theo chiều dọc từ Đông sang Tây và ngược lại từ Tây sang Đông là ngôi nhà 5 gian có kết cấu kiến trúc tương đối cân, đối xứng nhau gồm hai gian đầu đối xứng với 2 gian cuối (vì 1 đối xứng với vì 6, vì 2 đối xứng với vì 5, vì 3 đối xứng với vì 4).

Đây là ngôi nhà kết cấu 5 gian 6 vì kèo được đối xứng qua gian giữa, các cặp vì kèo đối xứng nhau về kết cấu dọc ngôi nhà.

Có thể thấy vì 2 và vì 5 là hai vì vốn có kết cấu hoàn chỉnh, nhưng gia chủ đã cắt mất cột cái và xây tường gạch. Như vậy, ngoài công năng của một vì kèo nó còn có chức năng ngăn đôi không gian sống trong ngôi nhà: không gian sinh hoạt riêng (có 2 gian buồng) và không gian tiếp khách thờ cúng tổ tiên (3 gian giữa).

Ngôi nhà đã đạt tới hình thức thẩm mỹ phù hợp với sinh hoạt và chức năng thờ tự của một gia đình khá giả ở nông thôn, phù hợp với ngôi nhà mang thức kiến trúc dân gian. Đáp ứng nhu cầu ở, thờ tự của dòng họ, chủ nhân ngôi nhà đã chọn được những tốp thợ không chỉ biết “Bào trơn đóng bén” mà cần đến sự hợp đồng của điêu khắc, một hình thức nghệ thuật trang trí cho một ngôi nhà ở dân gian. Ở đây các mảng chạm khắc trên các bộ phận kiến trúc như các xà ở ba gian giữa được trang trí các hình cúc dây, ở những nơi thoáng dễ nhìn ngắm, thưởng thức. Những nét chạm khắc tuy đơn giản nhưng thực, sống động, hình lá hoa cúc cách điệu, hình hoa sen, chủ đạo là cúc hoa, theo các cặp đối xứng nhau. Hình tượng này cũng được chạm khắc trang trí ở các bát đấu, bát thượng lương mang tính uyển chuyển, mềm mại làm tăng thêm hàm lượng nghệ thuật của ngôi nhà.

Ngôi nhà xây dựng với ba gian giữa dùng để thờ tổ tiên nên được chú ý về trang trí các cấu kiện như chạm khắc hoa văn lấy gốc là cúc, sen, mai, trái lại 2 gian dĩ được bố trí bên trong đơn giản, kín đáo.

Đây là một công trình kiến trúc gỗ nhà ở mang tính chất, dấu ấn của kiến trúc dân gian, văn hóa dân gian truyền thống, với kết cấu kiến trúc và đường nét chạm khắc, hài hòa tạo cho công trình kiến trúc đồng nhất, bền vững với không gian sống, không gian thờ tự mang đậm nét dân tộc.

Bài trí đồ thờ: Một sập thờ lớn kiểu “Dạ cá chân quỳ” chiếm gần 1/3 gian giữa được chạm khắc, phía trên đặt một long khám lớn, phía trong khám là ngai thờ, bài vị cổ của các vị tiền liệt các thế hệ họ Trương có công với đất nước.

Bàn thờ được sắp xếp những đồ thờ tự rất có giá trị lịch sử: Hòm đựng sắc phong cũ, bài vị, đôi kiếm thờ, bát hương cổ, bàn chè cũ, ống hương cũ,...

Ngoài ra, bên cạnh gian thờ chính, phía ban tả có một ban thờ của các nhánh họ Trương trong làng. Trên ban thờ này đặt một số đồ thờ mới như: bát hương, ngai thờ, bài vị,...của con cháu họ Trương cung tiến.

Hình ảnh Nhà thờ Họ Trương

Nhà thờ Họ Trương

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật